trang chu
-Nó chỉ cần ít thôi...
-Đứa này một ít, đứa kia một ít, cộng lại sẽ thành to. ông tôi phẩy tay và bảo tôi:
-Nên cho thằng Nikôlai ra ngoài trời, cho nó ra nắng, chỗ có cát ấy. Tôi lôi về một bao cát khô và sạch, đổ thành đống ở dưới cửa sổ, chỗ có nhiều nắng, và vùi đứa em vào trong cát cho ngập đến cổ như ông tôi bảo. Thằng bé thích ngồi trong cát, nó lim dim ra vẻ thích thú và nhìn tôi bằng cặp mắt khác thường, không có lòng trắng, chỉ thấy hai con ngươi màu xanh nằm giữa những vòng tròn nhỏ màu sáng bao quanh. Ngay từ mấy ngày đầu, tôi đã gắn bó với em tôi. Tôi có cảm tưởng rằng nó hiểu hết tất cả những điều tôi suy nghĩ, khi tôi nằm với nó trên đống cát gần cửa sổ; từ trong cửa sổ vẳng đến bên tai chúng tôi giọng nói rin rít của ông tôi:
-Chết thì có gì là khó khăn, mày mà biết sống cho ra sống mới là tài! Mẹ tôi ho từng cơn dài... Kôláa rút tay lên, chìa về phía tôi, lúc lắc cái đầu nho nhỏ tóc nâu. Tóc nó thưa, long lanh ánh bạc, bộ mặt nó trông nghiêm nghị như một ông cụ non. Mỗi khi có con gà hay con mèo đến gần chỗ chúng tôi, Kôláa chăm chú nhìn chúng rất lâu, rồi nhìn tôi và thoáng mỉm cười. Nụ cười đó thường làm tôi bối rối, không hiểu nó có cảm thấy rằng tôi chán giữ nó lắm và chỉ muốn bỏ nó đấy mà chạy ra đường hay không? Sân nhà chúng tôi thật chật hẹp và rác rưởi. Từ cổng đi vào là một dãy nhà kho bé tí, nhà để củi và nhà hầm làm bằng ván chưa lột vỏ; đi một quãng chúng quặt sang bên và trong cùng là nhà tắm. Trên mái chất đầy những mảnh ván thuyền, gỗ củi, gỗ xẻ và những vỏ bào còn tươi. Tất cả đều là những thứ mà những người dân nghèo đã vớt được trên sông ska trong lúc băng tan và trong khi nước to. Khắp sân cũng đầy những đống gỗ linh tinh nom rất bẩn, những đống gỗ ứ nước, bị nắng mưa làm mục nát, tỏa ra mùi gỗ mục. Cạnh nhà là một cái lò sát sinh chuyên giết gia súc nhỏ. Hầu như sáng nào bên đó cũng vang lên tiếng bê rống, tiếng cừu kêu be be. Mùi máu xông lên nồng nặc đến nỗi đôi khi tôi có cảm tưởng rằng nó rung động trong bầu không khí bụi bặm như một cái màng lưới đỏ trong suốt... Cứ nghe thấy tiếng những con vật rống lên khi bị búa bổ vào khoảng giữa hai sừng là Kôláa lại nheo mắt lại và phồng môi lên, chắc muốn bắt chước tiếng rống, nhưng nó chỉ thổi ra được chút hơi:
-Ph... phù... Giữa trưa, ông tôi thò đầu ra ngoài cửa sổ, gọi:
-n trưa! ông tôi tự tay bón cho thằng bé, giữ nó trên đầu gối mình, nhai ít khoai, bánh mì rồi lấy ngón tay khòng khòng nhét vào cái miệng nhỏ xíu của Kôláa, làm nhoe nhoét cả ra cặp môi mỏng và cái cằm nhọn của nó. Mới cho ăn được mấy miếng, ông tôi đã vén áo thằng bé lên, ấn ngón tay vào cái bụng ỏng của nó và nói:
-No rồi chứ? Hay còn muốn ăn nữa? Từ trong một góc tối om cạnh cửa tiếng mẹ tôi cất lên:
-Bố cũng thấy là nó đang giơ tay về phía miếng bánh đấy thôi!
-Bé dại như nó thì biết gì! Nó làm thế nào biết được là ăn bao nhiêu thì vừa... Và ông tôi lại nhét vào mồm Kôláa miếng bánh đã nhai... Nhìn cảnh cho ăn đó tôi thấy xấu hổ đến đau xót, tôi cảm thấy nghẹt thở và buồn nôn.
-Thôi được rồi!
-Cuối cùng ông tôi nói.
-Này, bế nó lại cho mẹ mày! Tôi đỡ lấy Kôláa, nó rên rỉ và vươn người về phía bàn. Mẹ tôi thở khò khè, ngồi dậy giơ hai cánh tay khô đét chỉ còn da bọc xương ra đón lấy Kôláa. Mẹ tôi nom dài đuồn đuỗn và mảnh khảnh như một cây thông chỉ còn trơ lại mấy cái cành đã bị tỉa hết lá. Không còn nghe thấy tiếng nói sôi nổi của mẹ tôi nữa, suốt ngày mẹ tôi cứ nằm im trong một xó. Mẹ tôi sẽ chết
-tôi cảm thấy thế và biết rõ thế. Và chính ông tôi cũng cứ lải nhải luôn mồm về cái chết, nhất là vào buổi chiều, lúc ngoài sân đã tối và mùi gỗi mục ngầy ngậy, nồng nồng như mùi da cừu luồn qua cửa sổ vào trong nhà. Giường ông tôi kê ở góc ngoài, gần ngay dưới các tượng thánh. ông tôi nằm quay đầu về phía các tượng và chiếc cửa sổ con. ông tôi lên giường nằm và làu bàu một lúc lâu trong bóng tối:
-Giờ chết đã điểm rồi đấy. Chúng ta sẽ đứng trước Chúa với mặt mũi như thế nào? Chúng ta sẽ nói gì? Dù sao chúng ta cũng đã lăn lóc suốt cả một đời, đã làm việc nọ việc kia... Thế rồi chúng ta đã đạt được những gì?... Tôi ngủ ở khoảng giữa lò sưởi và cửa sổ, ngay trên sàn nhà. Chỗ nằm ngắn quá, tôi phải cho chân vào gầm lò, gián đến bò vào chân làm tôi buồn như bị cù. Cái xó bếp này đã đưa đến cho tôi nhiều niềm vui quái ác. Trong lúc làm bếp, ông tôi hay làm đụng đầu chiếc gậy thông lò và gậy kéo nồi vào cửa sổ làm vỡ kính. Thật là buồn cười và kỳ lạ: một người thông minh như ông tôi mà không nghĩ ra cách cưa bớt đầu gậy đi. Có lần không hiểu có cái nồi gì đã sôi quá lâu, ông tôi hấp tấp dùng gậy kéo nồi giật mạnh cái nồi làm bắn tung chiếc thanh ngang trên khung cửa sổ ra cùng với hai miếng kính, còn chiếc nồi trên bếp thì bị lật và vỡ tan. Chuyện rủi đó làm cho ông già đau khổ đến nỗi ông ngồi xệp ngay xuống sàn nhà và khóc:
-Trời ơi là trời ơi... Ban ngày, lúc ông tôi vắng nhà, tôi lấy con dao cắt bánh mì chặt ngắn bớt chiếc gậy kéo nồi đi độ một phần tư. Nhưng lúc thấy thế, ông tôi liền mắng:
-Thằng quỷ tha ma bắt kia! Phải lấy cái cưa mà cưa. Những cái đầu gậy ấy còn có thể bán cho người ta làm trục lăn được đấy, đồ quỷ sứ! ông phẩy tay chạy ra phòng ngoài:
-Mày nhúng vào làm gì?...
-Mẹ tôi nói. Mẹ tôi chết, vào một ngày chủ nhật tháng tám, khoảng gần trưa. Bố dượng tôi vừa mới trở về sau một chuyến đi và đã lại tìm được việc làm. Bà tôi cùng với Kôláa đã đến ở với bố dượng tôi trong một căn nhà sạch sẽ ở gần ga, và đang định vài hôm nữa sẽ đưa cả mẹ tôi đến đấy. Vào buổi sáng hôm mẹ tôi mất, mẹ tôi nói với tôi bằng một giọng khe khẽ, nhưng rõ ràng và nhẹ nhàng hơn thường lệ:
-Con đến tìm Epgêni Vaxiliêvitạ, bảo rằng mẹ mời bố lại ngay! Mẹ tôi nhổm dậy, chống tay vào tường và ngồi lên, nói thêm:
-Chạy nhanh lên! Tôi cảm thấy hình như mẹ tôi mỉm cười, và có một cái gì mới mẻ ánh lên trong cặp mắt của người. Bố dượng tôi còn đang làm lễ ở nhà thờ, bà tôi bèn sai tôi đi mua thuốc lá của người đàn bà Do Thái làm nghề gác chắn xe lửa. Thuốc lá thái sẵn không có, tôi phải đợi bà ta thái xong mới có thuốc đem về cho bà tôi. Khi tôi về đến nhà ông tôi thì mẹ tôi đang ngồi ở bàn mặc chiếc áo dài tím sạch sẽ, tóc chải gọn gàng, vẻ đoan trang như trước đây.
-Mẹ đỡ rồi à?
-Tôi hỏi, không hiểu tại sao cảm thấy sờ sợ. Mẹ tôi quắc mắt nhìn tôi:
-Lại đây! Mày la cà ở đâu, hả? Tôi chưa kịp trả lời thì mẹ tôi đã túm lấy tóc tôi, tay kia vớ lấy một con dao dài, dẻo, làm bằng lưỡi cưa, và quật luôn mấy cái vào người tôi. Con dao tuột khỏi tay mẹ tôi.
-Nhặt lên! Đưa đây... Tôi nhặt con dao ném lên mặt bàn. Mẹ tôi đẩy tôi ra. Tôi ngồi xuống lò sưởi, sợ hãi theo dõi mẹ tôi. Mẹ tôi rời bàn đứng dậy, men tới góc nhà, nằm xuống giường và lấy khăn tay lau mặt đầm đìa mồ hôi. Tay mẹ tôi cử động chệch choạc, hai lần sượt qua mặt rơi xuống gối, kéo chiếc khăn tay lướt trên mặt gối.
-Cho tao chén nước... Tôi múc ở trong thùng một chén nước. Mẹ tôi ngóc đầu lên vẻ khó nhọc, nhấp một tí nước rồi đưa bàn tay lạnh toát ẩy tay tôi ra và thở dốc. Sau đó mẹ tôi ngước nhìn các tượng thánh ở góc nhà, rồi đưa mắt nhìn tôi, đôi môi mấp máy như mỉm cười và từ từ buông hai hàng mi dài xuống mắt. Hai khuỷu tay mẹ tôi khép chặt vào sườn, và hai bàn tay vừa khẽ động đậy các ngón, vừa lần lên ngực, nhích đến gần cổ họng. Một bóng đen lướt trên khuôn mặt mẹ tôi, như ăn sâu vào khuôn mặt, làm cho lần da vàng căng lên và cái mũi thêm nhọn. Mồm mẹ tôi há ra như tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng hơi thở thì không còn nghe thấy nữa. Tôi đứng yên rất lâu với chiếc chén trong tay bên giường mẹ tôi, nhìn khuôn mặt mẹ tôi đang đờ ra và xám lại. ông tôi bước vào, tôi bảo ông tôi:
-Mẹ cháu chết rồi! ông tôi ngó lên giường:
-Mày nói nhằng cái gì thế? ông tôi đến bên bếp lò và lấy bánh nướng ra; tiếng miếng sắt nắp lò và vỉ nướng bánh vang lên đinh tai. Tôi nhìn ông tôi; biết chắc là mẹ tôi đã chết, tôi cứ chờ xem đến bao giờ ông tôi mới biết điều đó. Bố dượng tôi đến, mặc chiếc áo vét-tông bằng vải thô, đội mũ lưỡi trai trắng. ông ta khẽ nhấc một chiếc ghế đến đặt xuống cạnh giường mẹ tôi, nhưng đột nhiên ông ta dận chiếc ghế xuống sàn, kêu to như tiếng kèn đồng:
-Nhưng, mẹ nó chết rồi, trông kìa... ông tôi tròn xoe mắt, từ từ rời khỏi bếp với mảnh sắt nắp lò trong tay, bước loạng choạng như người mù. Khi chiếc quan tài của mẹ tôi đã được chôn xuống dưới lớp cát khô, bà tôi tha thẩn giữa những ngôi mộ như một người mù; bà tôi vấp phải một cây thánh giá và bị rách toạc cả mặt. ông bố Iaz dẫn bà tôi vào chòi gác, và trong khi bà tôi rửa mặt, thì bác ta khẽ nói với tôi những lời an ủi:
-ôi, cháu của bác! Cháu làm sao vậy? Lạy Chúa đừng làm con mất ngủ! Sự đời là thế thôi... Tôi nói có phải không, cụ? Giàu nghèo thì cũng đến ra nghĩa địa cả thôi. Có phải thế không cụ? Bác nhìn ra cửa sổ và bỗng nhảy ra khỏi chòi canh, nhưng ngay sau đó bác quay trở lại cùng với Viakhi, mặt mày tươi tỉnh, hớn hở.
-Này, trông kìa!
-Bác nói và chìa cho tôi xem chiếc đinh thúc ngựa đã gẫy.
-Nhìn xem, tuyệt quá đấy! Đó là quà của bác và Viakhi tặng cháu đấy. Cháu trông xem, chiếc bánh xe nhỏ đây này, phải không? Nhất định đây là của một người Kôzăc nào đánh mất đây... Bác định mua lại của Viakhi vật này, bác trả bảy kôpêch...
-Bác chỉ nói điêu!
-Viakhi nói nhỏ, nhưng giọng đượm vẻ cáu kỉnh, còn bố Iaz thì nhảy lên trước mặt tôi, nháy mắt làm hiệu về phía Viakhi và nói:
-Trông Viakhi kìa. Nghiêm gớm là nghiêm! Thôi được, không phải của bác tặng mà là của nó tặng cháu đấy, nó... Bà tôi rửa mặt xong, trùm chiếc khăn vuông lên khuôn mặt sưng húp, tím bầm và gọi tôi ra về. Tôi không về vì biết rằng trong bữa cỗ tang ở nhà mọi người sẽ uống rượu vôtka và cãi nhau. Ngay từ lúc còn ở nhà thờ, cậu Mikhain đã vừa thở dài vừa bảo với cậu Iakôp:
-Hôm nay chúng ta sẽ được bữa say túy lúy, hả? Viakhi cố làm cho tôi phải vui: nó cặp chiếc đinh thúc ngựa vào cằm và cố thè lưỡi xuống chiếc bánh xe, còn bố Iaz thì cố ý cười vang và hét:
-Trông kìa, cháu trông, nó làm cái gì kia kìa! Nhưng nhận thấy tất cả những trò đó đều không làm cho tôi vui lên được, bác liền cất giọng nghiêm trang:
-Này thôi đi, cháu đừng nghĩ ngợi gì nữa! Tất cả chúng ta đều sẽ chết; ngay chim chóc rồi cũng chết kia mà! Thôi, thế này vậy, bác trồng cỏ lên mộ mẹ cháu nhá, được không? Bây giờ cháu, Viakhi và bác, mấy bác cháu ta ra ruộng đi. Cả thằng Xanka của bác cũng cùng đi. Bác cháu ta sẽ đem cỏ về đắp lên mộ, như vậy rất tốt! ý kiến đó làm tôi rất thích, và chúng tôi đi ra ruộng. Sau khi chôn cất mẹ tôi được vài ngày, ông tôi bảo tôi:
-Này, Lêcxây mày không phải là cái mề-đay, mày không thể lủng lẳng mãi trên cổ tao, mày hãy đi vào đời mà kiếm sống... Và thế là tôi bước vào đời.


.The end.

The end
mỗi lần click vào đường link này, bạn đã ủng hộ wap 0.0000001$. click vào để ủng hộ wap! Thank
Ten mien ngan gon:hoamaoga.tkThat de nho phai ko?




Danh gia
Có nên yêu không khi tình yêu đang le lói? Có nên nhớ không khi nỗi nhớ loé trong tim? Có nên tin không khi niềm tin đang trỗi dậy? Có nên ghét không khi yêu thương đang tràn trề?
>>>tiamo<<<
Đang đọc : 1 Hôm nay có: 1 bạn đọcLượt đọc: 10130bodem
© 2010-2011 Hoamaoga.mobie.in

Pair of Vintage Old School Fru